Bài Ðọc I: Xh 19, 2-6a
“Ðối với Ta, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế, một dân tộc hiến thánh”.
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, con cái Israel đi đến hoang địa Sinai, và đóng trại ở đó. Israel cũng dựng nhà xếp trên triền núi. Còn Môsê thì lên cùng Thiên Chúa. Từ trên núi, Chúa gọi ông và bảo: “Ngươi hãy nói với nhà Giacóp và thông báo cho con cái Israel thế này: Chính các ngươi đã thấy những gì Ta làm cho người Ai-cập. Ta đã mang các ngươi trên cánh phượng hoàng và đem các ngươi đến với Ta. Từ nay, nếu các ngươi nghe lời Ta và giữ giao ước Ta, thì các ngươi sẽ là sở hữu của Ta được tách biệt khỏi mọi dân, vì cả trái đất là của Ta. Ðối với Ta, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế, một dân tộc hiến thánh”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 99, 2. 3. 5
Ðáp: Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi (c. 3c).
Xướng: 1) Hãy phụng sự Chúa với niềm vui vẻ, hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá.
Ðáp: Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi (c. 3c).
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người; ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi.
Ðáp: Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi (c. 3c).
3) Vì chưng Chúa thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín còn tới muôn muôn thế hệ.
Ðáp: Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi (c. 3c).
Bài Ðọc II: Rm 5, 6-11
“Nếu chúng ta được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của Ngài”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, Chúa Kitô theo kỳ hẹn đã chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết thay người công chính, hoạ chăng có những người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta. Vậy phương chi bây giờ, chúng ta đã nên công chính trong máu của Người, và nhờ Người chúng ta sẽ được cứu khỏi cơn thịnh nộ. Bởi chưng, nếu khi chúng ta còn là thù nghịch, mà chúng ta đã được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, thì huống chi khi đã được giao hoà, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của chính Chúa Kitô, và không những thế, chúng ta còn được vinh hiển trong Thiên Chúa nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người mà bây giờ chúng ta được lãnh ơn giao hoà.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.
Tin mừng: Mt 9, 36 – 10, 8
“Sau khi triệu tập mười hai môn đệ, Người sai các ông đi”.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng, liền động lòng xót thương họ: vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”.
Và Người liền triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền.
Ðây là tên của mười hai tông đồ: trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em ông; Giacôbê con của Giêbêđê và Gioan em ông; Philipphê và Bartôlômêô; Tôma và Matthêu người thu thuế; Giacôbê con của Alphê và Tađêô; Simon người Cananêô và Giuđa Iscariốt, kẻ nộp Người.
Chúa Giêsu sai mười hai ông này đi và truyền lệnh cho các ông rằng: “Các con đừng đi về phía dân ngoại, và đừng vào thành các người Samaritanô. Nhưng tốt hơn, các con hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: “Nước Trời đã đến gần”. Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.
Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)
Suy niệm: Các tông đồ được Ðức Giêsu tuyển chọn để gặt trên cánh đồng lúa của Người. Nhiệm vụ truyền giáo cần thiết và cấp bách, vì biết bao người anh em còn chưa nhận biết Thiên Chúa là Cha, chưa tin tưởng vào tình yêu vô biên và tận hưởng sự êm ái hạnh phúc ở trong nhà Cha.
Cầu nguyện: Lạy Cha, ngày nay Cha cũng không ngừng mời gọi chúng con là thợ gặt trên cánh đồng truyền giáo của Cha. Xin cho chúng nhận biết nhiệm vụ cao cả của mỗi người tín hữu chúng con. Ðể chúng con mau mắn lên đường bằng lời cầu nguyện, bằng lời rao giảng, bằng đời sống chưng nhân… để danh Cha được vinh sáng. Xin Ðức Kitô Con Cha cầu bầu cho chúng con. Amen.
Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J)
Suy niệm:
Ðức Giêsu thấy đám đông theo Ngài,
vất vưởng bơ vơ như chiên không người chăn dắt.
Người chạnh lòng thương,
lòng thương bắt nguồn từ con tim biết nhói đau
trước nỗi khổ của người khác.
Ðức Giêsu đã làm tất cả để xoa dịu, đỡ nâng
và mời gọi các môn đệ cộng tác trong công cuộc ấy.
Trước một thế giới buồn,
Ngài sai họ rao giảng Tin Mừng về Nước Trời gần đến.
Trước một thế giới bệnh hoạn,
Ngài cho họ khả năng chữa lành.
Trước một thế giới bị nô lệ cho thần ô uế,
Ngài cho họ quyền đem lại tự do.
Trước một thế giới đầy chết chóc,
Ngài cho họ quyền trả lại sự sống.
Ðức Giêsu sai các môn đệ đi vào cuộc đời,
đi hai người một để nâng đỡ nhau.
Ngài không chọn những người giỏi giang, học thức,
nhưng chọn những người đánh cá đơn sơ và quảng đại.
Trước hết, Ngài sai họ đến với chính dân tộc của họ,
để rồi sau này đến với cả thế giới.
Ðức Giêsu muốn họ cho đi tất cả những gì đã nhận
mà không đòi hỏi chút quyền lợi hay đặc ân nào.
Hôm nay, Ðức Giêsu mời chúng ta nhìn thấy đám đông
gần 6 tỉ người trên mặt đất.
Ngài mời chúng ta thấy 50 ngàn trẻ em chết đói mỗi ngày.
Từ 12-18 triệu người chết đói một năm.
1,3 tỉ người sống trong cảnh đói nghèo cùng cực.
800 triệu người thất nghiệp, một tỉ người lớn mù chữ.
Ngài mời chúng ta thấy những trẻ em bị sida ở Châu Phi,
những người trẻ trí thức bị bơ vơ ở Nhật,
những sa đọa và hưởng thụ, ma tuý và tội ác,
những hố sâu hơn giữa các nước giàu và nước nghèo,
giữa người giàu và người nghèo,
ngay cả trong các nước tiên tiến.
Ngài mời chúng ta nhìn thế giới này bằng đôi mắt của Ngài,
nhìn thấy mà chạnh lòng thương.
Chính cái nhìn đầy chạnh thương đưa ta lên đường.
Thế giới hôm nay cũng như hôm qua,
vẫn là một thế giới cần đến ơn cứu độ.
Người nghèo cần được tôn trọng phẩm giá,
người giàu cần mở ra để thấy đời mình có ý nghĩa.
Chúng ta không bi quan trước thế giới hôm nay
mênh mông nỗi đau, tràn ngập sự ác.
Tôi phải làm gì để chữa lành một thế giới bị thương?
Tôi phải nói gì với một thế giới không biết mình nô lệ?
Chỉ xin lên đường với Chúa Giêsu trong tin yêu,
và xin Cha cho có nhiều người cùng tiếp bước.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong…
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Suy niệm (Lm Giuse Đinh lập Liễm)
CHÚA KÊU MỜI
1. Tin Mừng Nước Trời.
Trong suốt ba năm, Chúa Giêsu đã đi rao giảng Tin mừng Nước Trời. Thánh Matthêu đã tóm tắt trong một câu rất gọn :”Đức Giêsu rao giảng khắp các thành, các làng, giảng dạy trong các hội đường của họ và loan Tin mừng về Nước Trời cùng chữa lành mọi tật nguyền bện hoạn”(Mt 9,35).
Trong khi đi rao giảng như thế, hình như Chúa Giêsu có cái nhìn và cái cảm nghĩ không mấy lạc quan. Ngài thấy dân chúng mệt mỏi về thể xác, tinh thần bạc nhược vì thiếu sự săn sóc của chủ chăn. Giáo lý của các nhà Biệt phái rỗng tuếch, nhạt nhẽo mà lại quá phức tạp. Dân chúng có cảm nghĩ bị bỏ rơi, các vị chủ chăn chỉ lo săn sóc những chiên béo tốt xén lông và được danh dự.
Thánh Matthêu cho ta biết cái cảm nghĩ của Chúa Giêsu trước tình trạng dân chúng đó :”Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng liền động lòng thương xót họ””(Mt 9,36). Chúa thương họ như con chiên không có người chăn, như cánh đồng lúa chín không người gặt. Vì thế, Chúa bảo các môn đệ:”Lúc chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến”.
Để giải quyết hoàn cảnh đáng thương đó, Chúa đã chọn 12 tông đồ làm những cộng sự viên, sai họ đi truyền giáo, đến những nơi mà Ngài sẽ đến. Chúa ban cho các ông quyền hành rộng rãi :làm nhiều phép lạ… kể cả việc làm cho kẻ chết sống lại. Còn đề tài rao giảng của các ông là :”Nước Trời đã gần”, đấy cũng là đề tài rao giảng của thánh Gioan Tẩy giả, và cũng là đề tài của chính Chúa Giêsu đang rao giảng.
2. Giáo huấn của Giáo hội.
Công đồng Vatican II khẳng định :”Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải truyền giáo” (TG 2). Bản tính Giáo hội là truyền giáo tức là đem Tin mừng cứu rỗi cho nhân loại. Nhiệm vụ đó buộc tất cả mọi phần tử của Giáo hội tức là mọi người đã được rửa tội. Công đồng đặc biệt chú trọng đến phương diện tông đồ giáo dân :”Giáo dân làm tông đồ tức là tham gia vào chính sứ mạng cứu rỗi của Hội thánh. Chính Chúa – do phép rửa tội và phép thêm sức – giao cho tất cả mọi người bổn phận tông đồ ấy” (LG số 33).
Đức thánh Cha Gioan Phaolô II cũng quả quyết :”Không một ai trong những người tin vào Chúa Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này : Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu độ, 3).
3. Đồng lúa chín kêu gọi.
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Đấy là một lời báo động và cũng là một lời kêu gọi tha thiết và khẩn thiết. Chúng ta đang ở trong thời kỳ gặt lúa. Nhìn cánh đồng lúa chín vàng ối ai lại không thích ? Nhưng không may, ở đâu thiếu người gặt mà để cho đồng lúa bị lụt lội hay bão táp tàn phá làm hư hỏng thì ai không tiếc ?
Nhìn vào cánh đồng truyền giáo rộng bao la bát ngát, Giáo hội có một ưu tư lớn lao : lấy ai ra mà gặt cánh đồng này ? Trên thế giới có tới hơn 6 tỷ người, mà số tín hữu Công giáo mới có gần
1,1 tỷ. Nếu kể cả những anh em tin theo Chúa Kitô thì mới được 2 tỷ. Còn lại hơn tỷ nữa. Riêng Á châu chiếm một nửa dân số thế giới, mà mới được 3% người biết Chúa. Ở Việt nam thân yêu của chúng ta, dân số lên tới 84 triệu người mà mới có 6 triệu người Công giáo. Cánh đồng truyền giáo của quê hương thân yêu chúng ta cũng còn rất rộng. Trách nhiệm của những người Việt nam Công giáo cũng còn rất nặng. Chúa kêu gọi mọi người cộng tác vào công việc truyền giáo này.
Truyện : Ta không có tay.
Câu truyện xẩy ra tại Đức vào khoảng cuối thế chiến thứ hai. Tại một ngôi làng kia, một toán binh sĩ Mỹ tình nguyện giúp dân chúng xây dựng lại cuộc sống của họ. Nhưng họ không xin thực phẩm, thuốc men, nông cụ, mà chỉ xin tái thiết một pho tượng bị đổ nát vì bom đạn.
Từ nhiều thế kỷ qua, pho tượng là niềm tự hào của họ, giờ đây, chỉ còn là những mảnh vụn. Liệu những binh sĩ Mỹ có thể làm được công việc khó khăn này không ? Qua bao ngày tìm tòi vất vả, họ cũng đã nhặt lại được từng mảnh và dựng lại pho tượng, chỉ có điều là có hai phần trong pho tượng họ không thể tìm thấy.
Họ dựng pho tượng lên giữa quảng trường ngôi làng và phủ lên bằng tấm vải lụa, tấm vải này chỉ được mở ra bằng một nghi thức do ông Thị trưởng chủ tọa.
Khi dân chúng trong làng tề tựu đông đủ, ông Thị trưởng đọc diễn văn cảm ơn các binh sĩ Mỹ và cho mở tấm lụa ra. Mọi người ồ lên với tất cả kinh ngạc, vì pho tượng tuyệt đẹp nhưng lại không có đôi cánh tay. Dưới chân pho tượng mọi người đọc được hàng chữ lớn :”Ta không có tay, các ngươi có thể cho ta mượn cánh tay của các ngươi không” ?
Trước khi về trời, Chúa Giêsu, qua các Tông đồø, đã trao phó cho Hội thánh tiếp tục sứ mạng của Ngài cho đến tận thế. Vì vậy, Hội thánh chính là Chúa Kitô nối dài. Và một cách nào đó, Chúa Kitô đang xử dụng đôi cánh tay của Hội thánh để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Ngài. Chúng ta cũng là cánh tay nối dài của Hội thánh nên chúng ta cũng phải cộng tác vào trong việc cứu rỗi này.
II. TA ĐÁP TRẢ.
Chúng ta hãy đáp trả lời kêu gọi của Chúa Giêsu bằng cách SỐNG ĐỜI CHỨNG NHÂN. Có nhiều cách rao giảng Tin mừng, nhưng cách rao giảng Tin mừng hay nhất là sống đời chứng nhân vì nó phù hợp với hết mọi người, mọi nơi, mọi lúc. Qua kinh nhgiệm, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói :”Người thời nay không thích những thầy dạy cho bằng những chứng nhân”.
Người ta thường nói :”Văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình”, trăm nghe không bằng một thấy. Nghe thì biết vậy, người ta vẫn còn bán tín bán nghi. chưa có tính cách thuyết phục cao. Ví dụ : người ta thường dọa trẻ con là đừng có khóc kẻo “ông Ba Bị chín quai, mười hai con mắt, bắt trẻ bỏ bồ” ! Còn bé chúng ta tin lắm, nhưng làm gì có ông Ba Bị như thế ! Khi đã nhìn thấy, trông thấy rõ ràng, khi đã “kiến kỳ hình” một người hay một sự việc rồi thì người ta không thể phủ nhận được
, người ta phải chấp nhận một sự kiện ngay cả khi lòng không muốn.
Chúng ta có thể sống “đời chứng nhân” theo hai phương diện tích cực và tiêu cực :
1. Phương diện tích cực
a) Trở nên muối đất và ánh sáng thế gian.
Ta là Kitô hữu, đó là người được mang danh Chúa Kitô. Nhưng người ta có thể thắc mắc có thật là có Chúa Kitô không hay chỉ là một huyền thoại ? Hay ít ra, người ta không biết Chúa Kitô như thế nào, cần chúng ta phải phác họa cho họ đôi nét về Chúa Kitô. Chúng ta có thể họa cho họ đôi nét trong đời sống được không ?
Người Kitô hữu có nhiệm vụ họa lại khuôn mặt đích thực của Chúa Kitô và cả con người của Ngài bằng đời sống cụ thể của mình để người ta có thể có vài hình ảnh tốt đẹp về Chúa Kitô. Chúng ta phải thể hiện con người của Đức Kitô ra trong con người của chúng ta để chúng ta dám nói như thánh Phaolô :”Anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước Chúa Kitô” ! Nói như thế là thánh Phaolô có ý nói rằng Ngài đã được “Kitô hóa” rồi, vì Ngài đã nói :”Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà Chúa Kitô sống trong tôi”.
Muốn được thế, cuộc sống của người Kitô hữu phải trở nên muối đất và ánh sáng cho trần gian. Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ :”Chính anh em là muối cho đời, nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Chính anh em là ánh sáng trần gian… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm. mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,13-16).
Hai hình ảnh xem ra khác nhau nhưng đều giống ở sức tác động tốt :
– Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối giữ cho môi trường chung quanh nó khỏi hư, lại mặn mà.
– Ánh sáng thì rực rỡ, huy hoàng. Ánh sáng soi sáng cho người ta biết đường đi, nhận rõ các đồ vật.
Cả hai đều phải chịu sự hao mòn hy sinh thì mới gây tác động : muối tan dần đi, ngọn đèn nến ngày càng lụn xuống.
Lý do tồn tại của cả hai là để gây tác động tốt : nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa và phải bị vất đi.
Thân phận và hoàn cảnh của mỗi Kitô hữu khác nhau : có người âm thầm hèn mọn như muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là Kitô hữu nữa.
Chính con người của ta phải thể hiện hình ảnh Chúa Kitô ra trong đời sống hằng ngày, để thực sự con người ta là tấm gương phản chiếu Chúa Kitô cho người khác. Qua cuộc sống tốt đẹp của ta, người ta sẽ thấy Chúa tốt đẹp như thế nào. Nếu ta đã tốt đẹp như thế, thì Chúa còn tốt đẹp biết dường nào. Đúng là :
Xem mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo thì lòng mới ngon.
(Ca dao)
Truyện : nhà bác học Louis Pasteur.
Trên chuyến xe lửa tiến về Paris, người sinh viên trẻ ngồi bên cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tầu chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và từ từ chìm đắm trong sự cầu nguyện.
Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng không còn đủ kiên nhẫn, anh ta mới lên tiếng :
– Thưa ông, ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí à ?
Cụ già thản nhiên trả lời :
– Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao ?
Người sinh viên cười ngạo mạn quả quyết :
– Lúc nhỏ tôi có tin, nhưng bây giờ làm sao mà tôi có thể tin vào những chuyện ấy được. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hãy quẳng chuỗi hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan.
Cụ già nhỏ nhẹ hỏi người sinh viên :
– Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều này không ?
Người sinh viên hăng hái đề nghị :
– Ông cứ cho địa chỉ, tôi sẽ gửi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ say mê đi vào thế giới phong phú của khoa học.
Cụ già từ từ lấy trong túi áo ra một tấm danh thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi : Louis Pasteur, Hàn lâm viện khoa học Paris.
b) Gia đình củng cố ơn kêu gọi:
Trước tiên gia đình hãy cầu nguyện cho ơn kêu gọi. Mỗi ngày hãy thêm vào trong giờ kinh tối lời nguyện cầu xin cho ơn kêu gọi. Điều này có tác dụng như một lời nhắc nhở tế nhị cho con em chúng ta cân nhắc ơn gọi đi tu.
Tiếp đến, mỗi gia đình vun trồng ơn kêu gọi Linh mục và tu sĩ, lo cho gia đình của mình có nhiều người tận hiến đi truyền giáo, như gia đình ông bà Martin cha mẹ của thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu. Để được vậy cha mẹ hãy lo sống đạo đức, làm gương sáng. Năng gợi tư tưởng dâng mình cho Chúa với con cái mỗi khi trò chuyện thân mật, sau những buổi kinh tối gia đình.
2. Phương diện tiêu cực.
Phải tránh cách sống giả hình mà người ta gọi là “tốt mã giẻ cùi”, chỉ có cái mã bên ngoài, còn bên trong thì chẳng ra cái gì. Phải tập sống trung thực với lòng mình, phải làm cho danh và thực đồng nhất, có thì nói có, không thì nói không. Đừng theo lối sống giả hình như bọn Luật sĩ và Biệt phái, chính cách sống giả hình làm cho họ mất uy tín. Phải sống theo nguyên tắc :
Hữu ư trung, xuất hình ư ngoại.
Đừng bao giờ để cho “ngôn hành bất nhất”, đừng để cho cách sống bên ngoài phá hoại đời sống bên trong, làm cho người ta mất tin tưởng. Giả hình sẽ bị lột mặt nạ : cái kim giấu trong túi áo có ngày sẽ lòi ra vì như người ta nói : đi đêm có ngày gặp ma .
Phải đóng đúng vai trò của mình, vai nào đóng đúng vai đó, càng đúng càng hay : vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha ra cha, con ra con… theo như đường lối giáo dục của Khổng Tử :”Quân, thần, phụ, tử”. Đóng đúng vai trò thì được khen, ngược lại thì người ta chê và làm hỏng vai trò mình đóng, lại còn tác hại đến cả vở kịch nữa.
Truyện : Bộ mặt của anh hề.
Có một gánh xiếc bị hỏa hoạn, ông chủ gánh xiếc sai anh hề chạy đi kêu dân chúng trong làng đến tiếp tay chữa cháy, chẳng vậy lửa bốc to có thể lan sang khu vực họ đang ở. Anh hề vội vàng chạy đi, nhưng anh càng gào thét, múa máy bao nhiêu dân chúng lại càng cười lớn bấy nhiêu, vì họ nghĩ rằng anh hề đang diễn một màn hài hước.
Thấy không ai tin mình, anh hề giật râu, giật tóc và bật khóc nức nở, khiến khuôn mặt đầy phấn sáp của anh càng lọ lem hơn. Gào thét hết cả hơi sức, nhưng chẳng có ai tin anh, cuối cùng ngọn lửa cháy lớn lan tới thiêu hủy cả làng ra tro.
Sống đạo là truyền đạo. Ai cũng biết rằng không có lời rao giảng nào hùng hồn hơn chứng tá của cuộc sống ; không sứ điệp nào đáng tin hơn là gương sáng. Không gì khôi hài bằng đi loan báo tin buồn với khuôn mặt một anh hề, và cũng không gì khôi hài bằng mang tin vui với bộ mặt u buồn của người đi đưa đám.
Nhiều khi trong cuộc sống đạo, chúng ta cũng mang lấy bộ mặt của những anh hề. Sứ điệp mà chúng ta loan báo không được đón nhận, bởi vì cung cách chúng ta không phù hợp với nội dung của sứ điệp ấy. Chúng ta loan tin vui cứu độ, nhưng chúng ta có bộ mặt của những người không được cứu rỗi. Chúng ta loan báo tin vui của bác ái, hòa bình, nhưng cuộc sống chúng ta lại chỉ có những hành động của oán thù, ích kỷ, chiến tranh, hận thù (Chờ đợi Chúa, tr 147).
Để kết thúc, chúng ta hãy nghe một đoạn văn trích từ lá thư thánh Phanxicô Xavie gửi cho thánh Inhaxiô Loyola, bề trên của ngài :
“Con thường cảm thấy bị thôi thúc muốn đi đến các đại học Âu châu đặc biệt là đại học Sorbonne ở Paris và la lên như một gã điên cho những kẻ giầu tri thức hơn là thiện chí để yêu cầu họ sử dụng tri thức của họ sao cho có lợi ích… Phải chi trong khi nghiên cứu về các nhân văn họ cũng đồng thời nghiên cứu sổ kế toán mà Thiên Chúa sẽ đòi hỏi họ về tài năng Ngài đã ban cho họ ! Lúc đó nhiều người hẳn sẽ xúc động thốt lên :”Lạy Chúa, này con đây, Chúa muốn bảo con làm gì” ?
Nguồn: TGP Sài Gòn